Thiên niên kỷ thứ ba TCN Lịch_sử_Lưỡng_Hà

Thời kỳ Jemdet Nasr

Bảng quản lí hành chính ở dạng Tiền-chữ hình nêm, thời kì Jemdet Nasr 3100-2900 TCN, có thể từ thành phố Uruk.

Thời kỳ Jemdet Nasr, được đặt tên theo di chỉ Jemdet Nasr, thường được xác định niên đại từ 3100-2900 TCN.[29] Nó được phân biệt trên cơ sở đồ gốm đơn sắc và đa sắc, trang trí với hình vẽ và biểu tượng tượng hình.[30] Hệ thống chữ viết hình nêm đã được phát triển trong thời kỳ Uruk trước đó được tiếp tục hoàn thiện. Mặc dù vẫn chưa được xác định chắc chắn nhưng ngôn ngữ ghi trên các phiến đất sét này được cho là tiếng Sumer. Các văn bản đề cập đến các vấn đề quản lí hành chính như phân phối thực phẩm hoặc danh sách đồ vật hay động vật.[31] Các khu định cư trong thời kỳ này có tính tổ chức cao, tập trung quanh một ngôi đền trung tâm quản lí tất cả các khía cạnh của xã hội. Nền kinh tế tập trung vào sản xuất nông nghiệp địa phương và chăn thả cừu, dê. Tính đồng nhất của thời kỳ Jemdet Nasr trên một khu vực rộng lớn ở miền nam Lưỡng Hà cho thấy sự tiếp xúc và giao thương sâu sắc giữa các khu định cư. Điều này được củng cố bằng việc tìm thấy một con dấu tại Jemdet Nasr liệt kê một số thành phố có thể được chứng thực, bao gồm Ur, UrukLarsa.[30]

Sơ kỳ triều đại

Mũ trụ vàng của Meskalamdug, có thể là người sáng lập Triều đại đầu tiên của Ur, thế kỷ 26 TCN.

Toàn bộ thời Sơ kỳ triều đại thường được xác định niên đại từ 2900 đến 2350 TCN theo Niên đại Trung, hoặc 2800-2230 TCN theo Niên đại Ngắn.[32] Vào giữa thiên niên kỷ thứ 4 TCN, người Sumer đã sinh sống lâu dài ở Lưỡng Hà mặc dù vẫn có nhiều tranh cãi về thời gian khởi điểm.[33] Rất khó để xác định người Sumer đến từ đâu vì ngôn ngữ Sumer là ngôn ngữ biệt lập, không liên quan đến bất kỳ ngôn ngữ nào được biết đến. Thần thoại của họ có nhiều chi tiết liên quan đến khu vực Lưỡng Hà nhưng rất ít manh mối về xuất xứ của họ, có thể cho thấy họ đã ở đó trong một thời gian dài. Ngôn ngữ Sumer có thể được xác định từ văn tự tượng hình thời đầu xuất hiện từ nửa cuối thiên niên kỷ thứ 4 TCN.

Vào thiên niên kỷ thứ 3 TCN, các trung tâm đô thị đã phát triển thành các xã hội ngày một phức tạp. Thủy lợi và các phương tiện khai thác nguồn thực phẩm khác đã được sử dụng để tạo ra lượng tích lũy thặng dư lớn. Các dự án xây dựng khổng lồ được thực hiện, và tổ chức hành chính ngày càng tinh vi hơn bao giờ hết. Trong suốt thiên niên kỷ này, các thành bang khác nhau Kish, Uruk, Ur và Lagash tranh giành quyền lực và giành quyền bá chủ ở các thời điểm khác nhau. Nippur và Girsu là những trung tâm tôn giáo quan trọng, cũng như Eridu vào thời điểm này. Đây cũng là thời đại của Gilgamesh, một vị vua nửa lịch sử nửa thần thoại của Uruk và là nhân vật trung tâm của Sử thi Gilgamesh nổi tiếng. Đến năm 2600 TCN, văn tự tượng hình đã phát triển thành hệ thống văn tự kí âm hình nêm.

Trình tự thời gian của thời đại này không được xác định chắc chắn do những khó khăn trong việc đọc hiểu các văn bản và hiểu biết không đầy đủ về văn hóa vật chất của thời kỳ đầu triều đại và các khu vực khảo cổ ở Iraq nhìn chung chưa được xác định niên đại phóng xạ carbon. Ngoài ra, số lượng lớn các thành bang dễ dẫn đến nhầm lẫn, vì mỗi quốc gia có lịch sử riêng của mình. Danh sách vua Sumer là một ghi chép lịch sử chính trị ở thời kỳ này. Nó bắt đầu với các nhân vật thần thoại có triều đại dài phi lí, nhưng những người cai trị sau đó đã được xác thực với bằng chứng khảo cổ học. Người đầu tiên trong số này là Enmebaragesi của Kish, k. 2600 TCN, theo danh sách vua là người đã thu phục tộc láng giềng Elam. Tuy nhiên, một điều phức tạp của danh sách vua Sumer là mặc dù các triều đại được liệt kê theo thứ tự tuần tự, một số nhà vua thực sự cai trị cùng một lúc trên các khu vực khác nhau.

Cảnh yến tiệc, Khafajah, k. 2650-2550 TCN.

Enshakushanna của Uruk đã chinh phục tất cả Sumer, Akkad và Hamazi, tiếp theo là Eannatum của Lagash, cũng là người đã chinh phục toàn bộ Sumer. Ông nổi tiếng với sự tàn bạo và khủng bố, và ngay sau khi ông chết, các thành bang đã nổi loạn và đế chế sụp đổ. Một thời gian sau, Lugal-Anne-Mundu của Adab đã tạo dựng đế chế đầu tiên, tuy tồn tại trong thời gian ngắn, kéo dài về phía tây Lưỡng Hà, ít nhất là theo các tư liệu lịch sử có sau đó nhiều thế kỷ. Người Sumer bản địa cuối cùng cai trị hầu hết Sumer trước Sargon của AkkadLugal-Zage-Si.

Trong thiên niên kỷ thứ 3 TCN, đã có sự cộng sinh văn hóa rất mật thiết giữa người Sumer và người Akkad bao gồm việc sử dụng phổ biến song ngữ.[34] Ảnh hưởng của tiếng Sumer đối với tiếng Akkad (và ngược lại) thể hiện rõ trong tất cả các lĩnh vực, từ việc vay mượn từ vựng trên quy mô lớn, cho đến hội tụ cú pháp, hình thái và âm vị học. Điều này đã khiến các học giả nhắc đến tiếng Sumer và tiếng Akkad trong thiên niên kỷ thứ 3 như là một cặp liên mình ngôn ngữ (spachbund).

Tiếng Akkad dần thay thế tiếng Sumer thành ngôn ngữ nói của Lưỡng Hà vào khoảng giữa thiên niên kỷ thứ 3 và thứ 2 TCN (thời điểm chính xác vẫn đang được tranh luận),[35] nhưng tiếng Sumer tiếp tục được sử dụng như một thứ ngôn ngữ linh thiêng cho nghi lễ, văn chương và khoa học ở Lưỡng Hà cho đến thế kỷ 1 CN.

Đế chế Akkad

Bài chi tiết: Đế quốc Akkad
Bản đồ của Đế chế Akkad (màu nâu) và các hướng tiến hành các chiến dịch quân sự (mũi tên màu vàng) Bản đồ Ur III (màu nâu) và phạm vi ảnh hưởng của nó (màu đỏ)

Thời kỳ Akkad thường được xác định niên đại từ năm 2350-2170 TCN theo Niên đại trung, hay 2230-2050 TCN theo Niên đại ngắn.[32] Khoảng năm 2334 TCN, Sargon trở thành vua của người Akkad ở miền bắc Lưỡng Hà. Ông đã tiến hành chinh phục một khu vực trải dài từ Vịnh Ba Tư cho đến Syria ngày nay. Người Akkad là một tộc người Semitngôn ngữ Akkad được sử dụng rộng rãi như ngôn ngữ chung trong thời kỳ này, nhưng tiếng Sumer vẫn được sử dụng như ngôn ngữ viết. Người Akkad đã phát triển và nâng cấp hệ thống tưới tiêu của người Sumer, kết hợp các đập lớn và đập dẫn dòng để tạo thành cho các hồ chứa và kênh đào sử dụng cho vận chuyển khoảng cách lớn.[36] Triều đại tiếp tục cho đến khoảng năm 2154 TCN, và đạt đến đỉnh cao dưới thời Naram-Sin, người bắt đầu truyền thống các vị vua tự đồng hóa với thần thánh.

Đế chế Akkad mất dần quyền lực sau triều đại Naram-Sin, và cuối cùng bị người Guti từ dãy Zagros xâm chiếm. Trong nửa thế kỷ, người Guti kiểm soát Lưỡng Hà, đặc biệt là miền nam, nhưng họ để lại rất ít dấu tích văn tự, vì vậy hiểu biết về họ không nhiều. Khi người Guti dần để mất miền nam Lưỡng Hà, triều đại thứ hai của Lagash nổi lên. Nhà vua nổi tiếng nhất của nó là Gudea, đã để lại nhiều bức tượng tạc hình ông trong các ngôi đền trên khắp Sumer.

Thời kỳ Ur III

Cuối cùng, Guti bị lật đổ bởi Utu-hengal của Uruk, và các thành bang khác nhau lại tranh giành quyền lực. Thành bang Ur cuối cùng đã thống nhất khu vực Sumer khi Ur-Nammu thành lập Đế chế Ur III (2112-2004 TCN). Dưới thời con trai ông là Shulgi, quyền lực tập trung của nhà nước đạt tới đỉnh cao. Shulgi có thể là người ban hành Bộ luật Ur-Nammu, một trong những bộ luật cổ nhất được biết đến (ba thế kỷ trước Bộ luật Hammurabi nổi tiếng hơn sau này). Khoảng năm 2000 TCN, sức mạnh của Ur suy yếu dần và bị người Amorite thôn tính phần lớn diện tích. Đối thủ lâu đời của Sumer ở phía đông, người Elam, cuối cùng đã lật đổ Ur. Ở phía bắc, Assyria vẫn không bị Amorite kiểm soát cho đến tận cuối thế kỷ 19 TCN. Điều này đánh dấu sự kết thúc của các đế chế bao gồm các thành bang ở Lưỡng Hà và chấm dứt sự thống trị của người Sumer, nhưng các nhà cai trị sau đó đã tiếp nhận và kế thừa phần lớn nền văn minh Sumer.